Đi tìm một chữ “xanh” trong nông nghiệp: “Keywords” là sử dụng vật tư an toàn, chuẩn hoá quy trình sản xuất (Bài 8)

Minh Huệ (thực hiện) Thứ tư, ngày 06/12/2023 10:36 AM (GMT+7)
Bản chất của sản xuất xanh là không chỉ đem lại hiệu quả về năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản mà sâu xa hơn là xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp, để tất cả những người tham gia được hưởng lợi. Muốn vậy, chúng ta phải có nhận thức đầy đủ về sản xuất xanh và chuẩn hoá toàn bộ quy trình sản xuất.
Bình luận 0

Ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV - Bộ Nông nghiệp và PTNT) nhấn mạnh như vậy khi trả lời phỏng vấn Báo Dân Việt.

Đi tìm một chữ “xanh” trong nông nghiệp: “Keywords” là sử dụng vật tư nông nghiệp an toàn, chuẩn hoá quy trình sản xuất - Ảnh 1.

Đề án sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp được coi là mô hình mẫu về sản xuất lúa giảm phát thải mà Việt Nam là nước đầu tiên triển khai trên thế giới. Ảnh minh hoạ: Huỳnh Xây

Thưa ông, thời gian qua Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, điển hình là Đề án sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao tại ĐBSCL. Ông có thể cho biết đề án này đem lại những ý nghĩa như thế nào và Cục BVTV có những nhiệm vụ gì?

- Trước hết phải nói rằng Đề án sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao là một trong những nhiệm vụ trọng điểm của Bộ Nông nghiệp và PTNT và đã được Chính phủ phê duyệt. Đề án không chỉ nhằm nâng cao giá trị, lợi ích của ngành lúa gạo mà sẽ góp phần xây dựng hệ sinh thái trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay, nhằm hướng tới mục tiêu sản xuất xanh, sạch, bền vững, thực hiện thành công cam kết của Chính phủ là giảm phát thải khí nhà kính.

Do vậy, toàn bộ các đơn vị chức năng của Bộ đều tham gia thực hiện Đề án này, trong đó, Cục BVTV được giao thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể, với mục tiêu đẩy mạnh sử dụng vật tư đầu vào hiệu quả, an toàn, tiết kiệm, giảm phát thải khí nhà kính. Một trong những giải pháp quan trọng nhất chúng tôi đưa ra là xây dựng 3 đề án.

Thứ nhất là đề án quản lý dịch hại tổng hợp (IPFM), tức là đưa toàn bộ giải pháp kỹ thuật vào sản xuất lúa, làm thế nào để cây lúa phát triển khỏe mạnh, chống chịu được thời tiết bất thuận và các loài sinh vật gây hại, đem lại hiệu quả, năng suất và chất lượng sản phẩm.

Thứ hai là đề án phát triển phân bón hữu cơ và sử dụng phân bón an toàn, hiệu quả, có trách nhiệm. Đây là một trong những đề án quan trọng, có thể coi là keyword (từ khoá) của Đề án sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao. 

Theo đó, Cục BVTV sẽ xây dựng các chính sách nhằm đa dạng sản phẩm phân bón như phân bón hữu cơ, phân bón thế hệ mới nhằm giảm phát thải khí nhà kính; chuyển giao công nghệ để tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón; nâng cao nhận thức của người dân trong việc sử dụng hài hòa giữa phân bón hữu cơ và phân bón vô cơ, nhằm mục tiêu giảm chi phí thấp nhất mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Thứ ba, chúng tôi cũng xây dựng các giải pháp nâng cao nhận thức cho toàn ngành BVTV, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, người nông dân; thúc đẩy các chuỗi liên kết và ký kết các chương trình hợp tác nhiều bên nhằm duy trì và phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, gắn với tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân, để bà con yên tâm trên con đường sản xuất an toàn, bền vững, đảm bảo xanh, sạch.

Đi tìm một chữ “xanh” trong nông nghiệp: “Keywords” là sử dụng vật tư nông nghiệp an toàn, chuẩn hoá quy trình sản xuất - Ảnh 2.

Ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và PTNT). Ảnh: M.H

Nhiều nông dân lâu nay đã quá quen với sản xuất kiểu truyền thống, dùng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón theo cảm tính, thói quen mà không biết là cây trồng đã thực sự cần hay chưa, vậy ông có thể cho biết quá trình triển khai đề án gặp những khó khăn gì?

- Đầu tiên phải nói là rất khó khăn, điều này là do nhận thức, kinh nghiệm truyền thống, bên cạnh đó người dân luôn muốn làm gì đó nhằm giảm thiểu rủi ro trong sản xuất để đảm bảo năng suất, giá trị thu nhập.

Muốn thay đổi được điều đó, chúng ta phải chuẩn hóa lại toàn bộ quy trình sản xuất từ đầu vào tới quá trình chăm sóc, phát triển của cây trồng, thậm chí cả việc đưa ra thị trường. Do đó, ngoài việc đưa ra các giải pháp kỹ thuật, chúng tôi cũng kí kết với các tập đoàn lớn, viện nghiên cứu nhằm xây dựng các quy trình sản xuất phù hợp với từng chân đất, từng loại cây trồng ở các vùng sinh thái cũng như phù hợp với kinh nghiệm truyền thống của nông dân.

Trên cơ sở đó, chúng ta có những nhiệm vụ khác như hướng dẫn, tập huấn đào tạo cho bà con thực hiện đúng quy trình. Và Cục BVTV sẽ sớm số hóa các quy trình này, hướng dẫn cầm tay chỉ việc cho bà con thông qua các chương trình, mô hình, giúp bà con dễ hiểu, dễ tiếp cận và vận dụng.

Giải pháp nữa là hỗ trợ các doanh nghiệp để họ đào tạo lại những người buôn bán kinh doanh vật tư nông nghiệp. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp sản xuất, buôn bán vật tư nông nghiệp giả, kém chất lượng. 

Đồng hành với các nhiệm vụ đó, chúng tôi cũng mong muốn các cơ quan truyền thông, báo chí cùng chung tay với ngành nông nghiệp, cơ quan quản lý để đưa các giải pháp kỹ thuật đến tận tay bà con nông dân.

Thưa ông, thực tế cho thấy việc sản xuất xanh chưa thực sự được nhiều nông dân, doanh nghiệp quan tâm vì người ta cho rằng chưa thấy được lợi ích, hiệu quả tức thì của sản xuất xanh, vậy chúng ta có cần xây dựng những mô hình điển hình để giúp lan toả hiệu quả lâu dài của sản xuất xanh?

- Đúng là như vậy. Bản chất sản xuất xanh không chỉ đem lại hiệu quả về năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản mà sâu xa hơn là xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp, tức là tất cả những người tham gia đều được hưởng lợi, từ người sản xuất, cho đến những người kinh doanh, người sử dụng sản phẩm xanh.

Để đáp ứng được điều đó thì những thành phần tham gia phải có nhận thức, hiểu biết sâu sắc về sản xuất xanh. Đó là tiết giảm lượng giống, lượng nước, vật tư nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính làm ảnh hưởng tới môi trường; nâng cao an toàn cho người nông dân trong quá trình sử dụng hệ sinh thái sản xuất nông nghiệp; đưa công nghệ số, như thiết bị bay không người lái vào sản xuất để giúp bà con giảm công sức lao động, tiết kiệm vật tư…

Hơn thế nữa, trong đề án về phát triển phân bón hữu cơ, chúng tôi cũng đề xuất phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng các mô hình nông hộ sử dụng phân bón hữu cơ, tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp, góp phần giảm phát thải khí nhà kính…

Đi tìm một chữ “xanh” trong nông nghiệp: “Keywords” là sử dụng vật tư nông nghiệp an toàn, chuẩn hoá quy trình sản xuất - Ảnh 3.

Mô hình xanh canh tôm - lúa tại ĐBSCL được xem là một trong những điển hình của nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh. Ảnh: Dân Việt

Thưa ông, đối với việc sử dụng thuốc BVTV hiện nay, rất nhiều bà con nông dân không được tuyên truyền phổ biến đầy đủ về tác động của thuốc đối với sức khoẻ con người và môi trường. Các nhà kinh doanh thì quảng bá rất nhiều về tác dụng diệt trừ sâu bệnh mà ít nói về tác động tới sức khoẻ, môi trường. Thời gian tới phía Cục BVTV sẽ làm gì để nâng cao nhận thức cho bà con nông dân về sử dụng thuốc BVTV?

- Như tôi đã nói, trong 3 đề án Cục BVTV đang xây dựng trình Bộ Nông nghiệp và PTNT có 1 đề án về phát triển thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học, với những giải pháp cụ thể nhằm sử dụng hài hoà giữa thuốc BVTV hoá học và thuốc BVTV sinh học theo hướng giúp nông dân phòng trừ hiệu quả sinh vật gây hại trên cây trồng.

Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu quốc tế, thuốc BVTV có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo năng suất cây trồng, chiếm từ 40-60%. Đặc biệt, thuốc BVTV còn có vai trò nâng cao chất lượng sản phẩm từ 60-70%. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng không đúng cách, không đúng liều lượng, thời điểm, không đúng loại thuốc thì sẽ có những tác dụng không mong muốn.

Vì vậy, trong các văn bản pháp luật quy định sử dụng thuốc BVTV phải đảm bảo nguyên tắc 4 đúng. Và nguyên tắc này xuyên suốt trong tất cả các giải pháp của ngành bảo vệ thực vật hiện nay.

Đi tìm một chữ “xanh” trong nông nghiệp: “Keywords” là sử dụng vật tư nông nghiệp an toàn, chuẩn hoá quy trình sản xuất - Ảnh 4.

Kiểm tra máy bay không người lái HLD-18 trước khi trình diễn trên cánh đồng lúa tại tỉnh Hậu Giang. Ảnh: Huỳnh Xây

Để phát triển thuốc bảo vệ thực vật sinh học, chúng tôi đã có nhiều giải pháp lồng ghép hài hoà để làm sao giảm sử dụng thuốc BVTV hoá học, tăng sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học. Hiện, đề án đang lấy ý kiến các bên liên quan và trình Bộ phê duyệt.

Trong đó có 5 giải pháp cơ bản. Một là rà soát toàn bộ chủ trương chính sách, khuyến khích các doanh nghiệp, người dân tăng cường sản xuất, sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học, gồm các chính sách về đầu tư, thuế, vay vốn…

Thứ 2, phân loại, phân nhóm thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học để hỗ trợ các DN đăng kí các loại sản phẩm này.

Thứ 3, nâng cao nhận thức của người dân trong việc sử dụng thuốc BVTV sinh học. Theo đó chúng tôi sẽ xây dựng các mô hình thí điểm, nhất là chuẩn hoá quy trình cho mỗi loại thuốc sinh học cho từng nhóm cây trồng, giúp bà con sử dụng đúng quy trình để đem lại hiệu lực phòng chống sinh vật gây hại cũng như đem lại giá trị kinh tế.

Thứ 4, xây dựng phần mềm tra cứu danh mục thuốc BVTV, giúp bà con tra cứu dễ dàng bằng điện thoại từ đặc tính của thuốc, độ độc, cách thức sử dụng…

Cuối cùng là tăng cường thanh tra, kiểm tra các trường hợp thuốc BVTV không đáp ứng yêu cầu theo quy định, đặc biệt là thuốc quảng cáo sai mục đích, chất lượng không đảm bảo và xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan quản lý, cơ quan truyền thông xây dựng và tuyên truyền các mô hình sử dụng thuốc BVTV sinh học hiệu quả…

Ông đánh giá như thế nào về vai trò của việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất xanh?

- Hiện nay ở nhiều nơi đang phát triển mô hình sử dụng thiết bị bay không người lái vào phun thuốc BVTV, bón phân, rải giống và đây là mô hình rất hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có đánh giá về cách thức sử dụng thiết bị bay không người lái đối với từng loại vật tư nông nghiệp, đặc biệt phải được khảo nghiệm, đánh giá mới được phép sử dụng. 

Về phía Bộ NNPTNT, sẽ tập trung vào việc phát huy hiệu quả của thiết bị này, theo đó với mỗi loại địa hình, vật tư nông nghiệp chúng ta sẽ có giải pháp phun phù hợp. Trên cơ sở đó, mới đây chúng tôi đã xây dựng, chuẩn hoá quy trình khảo nghiệm sử dụng thuốc BVTV đối với thiết bị bay không người lái. 

Tiêu chuẩn này sẽ giúp các doanh nghiệp đăng ký các loại vật tư nông nghiệp được phép sử dụng bằng máy bay không người lái, với cách thức phun đảm bảo quy trình, đem lại hiệu quả tối đa, an toàn cho người sử dụng và môi trường.

Có thể khẳng định, việc áp dụng công nghệ số, thiết bị cơ giới hoá hiện đại đã đem lại hiệu quả vô cùng rõ rệt trong việc giảm công sức lao động, tiết kiệm nhiều thời gian, chi phí, rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, tập trung...

Xin cảm ơn ông!

Theo Tổ chức CropLife châu Á, trên quy mô toàn cầu, ngoài hơn 600 hoạt chất BVTV tổng hợp, hiện có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Bắc Mỹ hiện tại là đang là khu vực có tỷ lệ ứng dụng thuốc BVTV sinh học cao nhất.

Về mức độ sử dụng phổ biến, thuốc trừ sâu sinh học đang chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong các loại thuốc BVTV sinh học và thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc BVTV sinh học. Trong giai đoạn 2005 – 2025; mức độ tăng trưởng thị trường thuốc BVTV sinh học bình quân hàng năm là 10% trong khi tỷ lệ này của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.

Tổ chức CropLife châu Á cũng nhấn mạnh vai trò của thuốc BVTV sinh học khi đây được xem là một trong những công cụ hữu hiệu trong chương trình IPM khi kết hợp cùng với các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác, biện pháp canh tác, quản lý thời tiết và các yêu tố đầu vào… để đảm bảo năng suất và chất lượng tối ưu trong việc phòng trừ dịch hại.

Thuốc BVTV sinh học đặc biệt hữu hiệu tại những thời điểm như đầu mùa vụ, khi áp lực sâu bệnh thấp và tại cuối vụ khi nhu cầu về kiểm soát dư lượng và PHI cần được ưu tiên. Hạn chế phát triển tính kháng cũng là một ưu điểm và đóng góp nổi bật của thuốc BVTV sinh học.

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem